Hiển thị các bài đăng có nhãn bệnh zona thần kinh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bệnh zona thần kinh. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 18 tháng 10, 2015

Trị bệnh vẩy nến dễ đến không ngờ

Bệnh vẩy nến là bệnh rối loạn tự miễn dịch phát tác khi hệ miễn dịch phát đi tín hiệu không đúng làm thúc đẩy sự phát triển của các tế bào biểu bì.

1. Dưỡng ẩm
Bước đầu tiên để trị dứt bệnh vẩy nến đó là dưỡng ẩm cho da. Đặc biệt trong các tháng mùa đông lạnh, bạn cần giữ cho da có đủ độ ẩm cần thiết để giảm thiểu những nốt mẩn đỏ, ngứa cũng như khô da. Hãy làm bạn với những loại kem dưỡng ẩm không mùi phù hợp với làn da của bạn.
2. Tắm muối biển
Tắm với muối biển là cách tuyệt vời để thư giãn và dưỡng da. Ngoài ra, bột yến mạch cũng là một loại "sữa tắm" tự nhiên vô cùng hiệu quả để làm dịu làn da bị tấy rát của bạn. Một nghiên cứu gần đây đã cho thấy những người tắm với muối biển 10% khoảng 3-4 lần/tuần có thể cải thiện tình trạng nổi đỏ và ngứa rát một cách đáng kể. Không những vậy, tắm muối biển cũng hiệu quả tương tự với chứng mất ngủ, eczema và chứng viêm khớp.
3. Quả ô liu
Ăn quả ô liu tươi hoặc thoa dầu ô liu lên da là một cách tuyệt vời để "xử lí" bệnh vẩy nến. Dầu ô liu được biết đến như một chất dưỡng ẩm tự nhiên làm mềm mịn và dịu nhẹ với da. Quả ô liu và tinh chất dầu của nó giúp trị gàu, eczema, giảm nguy cơ mặc bệnh tim đồng thời còn giúp chữa trị các triệu chứng sau khi nhậu say. Vậy bạn còn chần chừ gì nữa?
4. Làm ẩm không khí
Dùng máy làm ẩm không khí là một giải pháp hữu hiệu nhất để tránh cho không khí trong ngôi nhà bạn không bị khô dẫn đến làn da bị mất độ ẩm tự nhiên. Không khí khô có thể làm tổn hại đến bất cứ loại da nào; đặc biệt với những người vốn có làn da khô sẽ rất dễ mắc bệnh vẩy nến. Vì vậy, hãy cân nhắc sắm một chiếc máy làm ẩm không khí bởi nó còn hiệu quả với những người bị bệnh khô mắt, làm giảm các triệu chứng cảm lạnh và cảm cúm cũng như tránh khô môi.
5. Tận hưởng ánh nắng mặt trời
Hãy ra ngoài và tận hưởng không khí tự nhiên cùng ánh nắng mặt trời sẽ giúp bạn lấy lại tâm trạng vui tươi đồng thời đó cũng là cách đơn giản nhất để trị bệnh vẩy nến. Tuy nhiên, bạn cần nhớ thoa kem chống nắng trước khi ra ngoài. Hãy bắt đầu với 10 phút sau đó tăng dần thời gian lên 20-30 phút mỗi lần. Bạn nên cẩn thận khi ở quá lâu ngoài nắng sẽ làm da hư tổn và tư vấn ý kiến của bác sĩ bởi một số loại thuốc chống vẩy nến kích ứng với ánh nắng mặt trời.
6. Dấm táo
Dấm táo còn có công dụng bất ngờ trong việc giúp giảm các triệu chứng của bệnh vẩy nến. Do đó, bạn có thể ngâm các ngón tay và chân vào dấm táo hoặc tẩm bông với dung dịch dấm táo rồi thoa lên vùng da đó. Bạn có thể chuẩn bị dung dịch với công thức sau: 1 chén dấm táo với khoảng 3,8 lít nước, dùng một miếng vải sạch nhúng vào dung dịch và thoa đều lên da.
7. Màng nhựa bọc thực phẩm
Nghe có vẻ không mấy liên quan đến bệnh vẩy nến nhưng nhiều người đã thực hiện theo phương pháp này và hiệu quả khá khả quan. Sau khi thoa thuốc như thông thường, hãy dùng màng bọc thực phẩm cuốn kín vùng da đó lại. Việc này giúp thuốc dễ dàng thẩm thấu sâu vào da cũng như giữ cho vùng da đó được giữ ẩm tốt hơn.
8. Lô hội
Bạn có biết rằng cây lô hội có công dụng chữa bệnh vẩy nến hiệu quả không? Bạn có thể mua lá lô hội ở siêu thị hoặc cắt lá tươi ngay từ cây rồi thoa dịch đó lên da. Dịch lá lô hội thực sự là chất dưỡng ẩm hoàn toàn tự nhiên với tác dụng làm làn da khỏe mạnh hơn.


Chứng đau thần kinh sau zona, thuốc gì?

Điều trị đau thần kinh sau zona hiện nay vẫn còn khó khăn đối với các thuốc giảm đau chống viêm thông thường. Vì vậy, các thuốc chống trầm cảm 3 vòng và thuốc chống động kinh đã được sử dụng nhiều trong điều trị đau thần kinh sau zona và đạt hiệu quả tốt, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Thuốc chống trầm cảm ba vòng
Thuốc chống trầm cảm 3 vòng (tricyclic antidepressants) là nhóm thuốc tổng hợp có nhân thơm 3 vòng. Thuốc có 3 dạng là: dibenzazepin (imipramin), dibenzocyclohepten (amitriptylin) hoặc dibenzoxepin (doxepin). Thuốc có tác dụng chống trầm cảm, giải lo âu và được chỉ định chủ yếu trong chuyên ngành tâm thần, cho những người bị trầm cảm. Tuy nhiên, nhóm thuốc này còn có tác dụng giảm đau thần kinh nên được sử dụng trong điều trị đau thần kinh sau zona.
Amitriptylin có cơ chế tác dụng ức chế tái nhập các monoamin, serotonin và noradrenalin ở các neuron monoaminergic. Ngoài ra, amitriptylin còn có tác dụng kháng cholinergic ở cả thần kinh trung ương và ngoại biên.
Thuốc chống chỉ định cho người hồi phục sau nhồi máu cơ tim, suy tim sung huyết cấp, phụ nữ có thai và cho con bú, trẻ em dưới 12 tuổi. Cần tránh dùng kết hợp với các thuốc sau đây: kết hợp phenothiazin gây nguy cơ lên cơn động kinh; hormon sinh dục, thuốc tránh thai làm tăng tác dụng của amitriptylin; kết hợp thuốc chống đông làm tăng tác dụng của thuốc chống đông lên gấp 3 lần; kết hợp cimetidin có thể gây ngộ độc amitriptylin; kết hợp với thuốc hạ áp như clonidin, guanethidin, guanadrel làm giảm tác dụng hạ áp; kết hợp thuốc cường giao cảm có thể làm rối loạn huyết áp, loạn nhịp tim.
Tác dụng phụ hay gặp khi dùng amitriptylin là mệt mỏi, ngầy ngật, nhức đầu, ù tai, rối loạn nhịp tim, huyết áp, rối loạn tiêu hóa, nôn, buồn nôn, khô miệng, bí tiểu. Do các tác dụng phụ của thuốc nên sử dụng thuốc cần thận trọng ở người cao tuổi, cường giáp, bí tiểu, glaucom góc đóng, tăng nhãn áp, suy gan, suy thận. Thuốc có thể gây buồn ngủ, ngủ gà, nên tránh vận hành tàu xe khi dùng thuốc.
Thuốc chống động kinh
Trong điều trị đau thần kinh sau zona, thuốc chống động kinh cũng thường được dùng kết hợp điều trị đau. Gabapentin là thuốc chống co giật được chỉ định chủ yếu trong điều trị động kinh và đau thần kinh, trong đó có đau thần kinh sau zona. Tuy nhiên, cần thận trọng dùng trong các trường hợp: trẻ em dưới 12 tuổi, phụ nữ có thai và cho con bú. Đối với người già trên 65 tuổi, người suy thận phải giảm liều.
Dùng gabapentin có thể gặp các tác dụng phụ không mong muốn như buồn ngủ, chóng mặt, mất điều hòa, đau đầu, song thị, buồn nôn và/hoặc nôn, viêm mũi. Không dùng thuốc cho những người điều khiển máy, vận hành tàu xe.
Trong nhiều trường hợp đau thần kinh sau zona, các thuốc ở trên dùng đơn thuần không khống chế được cơn đau. Những trường hợp này cần phải kết hợp cả thuốc giảm đau chống viêm không steroid (NSAIDs), thuốc chống trầm cảm và thuốc chống co giật. Bên cạnh đó, sử dụng thêm thuốc an thần vào buổi tối giúp bệnh nhân dễ đi vào giấc ngủ. Một số biện pháp vật lý trị liệu cũng hỗ trợ tốt trong điều trị đau thần kinh sau zona như dùng điện xung, tần phổ, sóng siêu âm.


Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2015

Nhận biết viêm thành mạch dị ứng

Viêm thành mạch dị ứng là một bệnh gặp chủ yếu ở trẻ em hoặc người trẻ tuổi, rất ít khi gặp ở người cao tuổi, bệnh thường thứ phát và mang tính chất cấp tính.

Bệnh viêm thành mạch dị ứng đã được phát hiện năm 1874 bởi Henoch và được mô tả chi tiết bởi Schoenlein vào năm 1941, vì vậy còn được gọi là bệnh Choenlein - Henoch. 
Biểu hiện của bệnh viêm thành mạch dị ứng
Biểu hiện xuất huyết của bệnh viêm thành mạch dị ứng khác hẳn với bệnh SXHD. Viêm thành mạch dị ứng chủ yếu là xuất huyết dưới da. Xuất huyết dưới da có các đặc điểm nổi trội là xuất huyết tự nhiên không liên quan tới tác động cơ học và hiện tượng xuất huyết tăng nặng khi đi lại nhiều và đứng lâu.
Đặc điểm của xuất huyết là nốt xuất huyết thường nhỏ, có màu đỏ, ít khi thành các nốt lớn hoặc ít khi nốt xuất huyết thành từng mảng, từng đám hoặc máu tụ. Vị trí xuất huyết thường dưới da tứ chi, tập trung nhiều nhất ở các đầu chi. Sự xuất huyết dưới da ở chi đối xứng hai bên (khác hoàn toàn với SXHD). Một điểm cần chú ý là xuất huyết dưới da của bệnh viêm thành mạch dị ứng rất ít khi gặp ở thân mình, đầu, mặt hoặc cổ (khác với bệnh SXHD là xuất huyết dưới da ở bất cứ vị trí nào của da). Màu sắc của các nốt xuất huyết là đỏ và đồng đều như nhau.
Trong giai đoạn bệnh đang tiến triển, có thể làm phản ứng dây thắt dương tính (giống với SXHD). Trong một số trường hợp, bệnh viêm thành mạch dị ứngcó thể gây nên cả xuất huyết niêm mạc nội tạng như xuất huyết đường tiêu hóa kèm theo đau bụng. 
Biểu hiện của xuất huyết đường tiêu hóa là đau bụng, đi ngoài phân đen, đo huyết áp có thể thấy huyết áp dưới mức bình thường, kèm theo hoa mắt chóng mặt lúc ngồi xuống, đứng lên; niêm mạc môi, mắt nhợt nhạt. Một số trường hợp có tổn thương mao mạch cầu thận gây nên hiện tượng đái máu vi thể (soi cặn nước tiểu bằng kính hiển vi quang học thấy có hồng cầu) nhưng rất ít khi thấy đái máu đại thể (mắt thường có thể nhìn thấy nước tiểu có màu đỏ).
Ngoài ra, một số trường hợp có thể thấy hiện tượng đau nhức khớp gối, khớp cổ chân. Biến chứng của bệnh viêm thành mạch dị ứng có thể là viêm cầu thận mạn hoặc trong trường hợp viêm thanh mạc ruột có thể gây thủng ruột do hoại tử nhưng các loại biến chứng này rất ít gặp. 
Vì vậy, bệnh viêm thành mạch dị ứng cần phân biệt với bệnh SXHD. SXHD bao giờ cũng có sốt và xuất huyết dưới da ở bất kỳ vị trí bộ phận nào trên cơ thể do giảm tiểu cầu. SXHD xảy ra chắc chắn phải có virut Dengue và muỗi Aedes aegypti, Aedes albopictus truyền bệnh. Còn viêm thành mạch dị ứng không do virut Dengue và không có vật chủ trung gian truyền bệnh. Viêm thành mạch dị ứng chủ yếu ở chi (nhiều nhất ở đầu các chi), đối xứng hai bên.
Khi bị viêm thành mạch dị ứng nên làm gì?
Do nguyên nhân gây bệnh khác nhau nên phác đồ điều trị bệnh viêm thành mạch dị ứng khác hoàn toàn với phác đồ điều trị bệnh SXHD. Để bệnh không tái phát, cần tìm nguyên nhân gây bệnh, đó là dị ứng nguyên hoặc tác nhân gây nhiễm khuẩn. Qua đó để hạn chế hoặc không tiếp xúc với dị ứng nguyên và nếu do nhiễm khuẩn thì sẽ có biện pháp xử trí thích hợp. Việc xác định dị ứng nguyên sẽ được thực hiện tại khoa dị ứng hoặc trung tâm dị ứng của các cơ sở y tế có đủ điều kiện.
Vì vậy, khi nghi bị viêm thành mạch dị ứng nên đi khám bệnh càng sớm càng tốt, không nên tự chẩn đoán bệnh cho mình hoặc người thân và không tự mua thuốc để điều trị. Nếu làm như vậy, bệnh không những không khỏi mà có thể nặng thêm, đôi khi gây nguy hiểm cho tính mạng, đặc biệt là dùng các loại corticoid
Điều trị bệnh viêm thành mạch dị ứng chủ yếu dựa vào chống dị ứng, bảo vệ thành mạch, nếu xuất huyết gây thiếu máu nhiều sẽ có chỉ định bổ sung hồng cầu hoặc nếu có dấu hiệu nhiễm khuẩn sẽ được dùng kháng sinh điều trị. Tuy vậy, cần dùng thuốc gì và trong thời gian bao lâu là do bác sĩ khám bệnh trực tiếp chỉ định, người bệnh cần tuân theo chỉ dẫn và thực hiện theo đơn của bác sĩ.
Bên cạnh đó, người bệnh cần nghỉ ngơi, tránh đi lại nhiều và không nên đứng lâu. Nên ăn uống đủ chất, nhất là các loại thức ăn và quả tươi có chứa nhiềuvitamin C, cần kiêng các loại thực phẩm gây dị ứng cho bản thân mình đã từng xảy ra.

Điều trị rụng tóc thế nào?

Rụng tóc là một phản ứng bình thường, tạm thời trước một điều gì đó bạn vừa trải qua, chẳng hạn như phẫu thuật hay bị sốt.

Rụng tóc cũng có thể là một đặc tính di truyền, hoặc cũng có thể là dấu hiệu cảnh báo về sự thiếu chất hay mất cân bằng hóa học. Vì vậy, bạn cần phải làm những gì tốt nhất để ngăn chặn và bù đắp cho sự thiếu hụt.
Vì sao tóc rụng?
Có nhiều nguyên nhân gây rụng tóc như: do dùng thuốc chữa bệnh; do yếu tố cơ lý, hóa học; do rối loạn chức năng ở cơ quan khác gây ra như bạn bị thiếu máu, stress, sau sinh; rụng tóc do yếu tố thần kinh và miễn dịch; do vi nấm; do viêm da dầu; do di truyền; do các thương tổn da đầu gây ra...
Điều trị rụng tóc thế nào? 1
Rụng tóc do nấm
Cách chữa trị?
Điều trị bằng thuốc:
Điều trị bệnh rụng tóc không đơn giản vì có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng này. Để chọn loại thuốc thích hợp, cần tìm ra nguyên nhân gây rụng tóc.
Với rụng tóc sau sinh, sau chấn thương lớn, mất máu, bệnh truyền nhiễm(sốt rét, tả, lỵ, thương hàn, sốt xuất huyết): uống bepanthen, biotin, vitamin C, B1, B6... và tăng cường dinh dưỡng trong ăn uống, khi sức khỏe hồi phục thì tóc sẽ mọc lại như trước.
Ở thể rụng tóc Pelade (rụng tóc từng vùng): Điều trị đường toàn thân: Có thể áp dụng một trong các phương pháp sau: Tiêm triamcinolone acetonide, uống corticoid, ngoài ra, có thể uống bepanthen, biotin, vitamin C, 3B và thuốc an thần. Bên cạnh đó, có thể uống cyclosporine, tuy nhiên cũng tái phát sau ngưng thuốc vài tháng. Dapsone ít áp dụng vì có nhiều tác dụng phụ.
Điều trị miễn dịch tại chỗ: Gây viêm da tiếp xúc tại chỗ bằng cách bôi các dị ứng nguyên mạnh; thường dùng 2 loại: squaric acid dibutylester (SADBE) và diphencyprone (DPCP). Kết hợp bôi corticosteroid tại chỗ. Dùng anthralin 0,2-1%: thoa sau 30 phút đến 1 giờ thì rửa sạch hoặc có thể để qua đêm. Ngoài ra còn có thể dùng PUVA, cyclosporin (nhưng kết quả rất hạn chế, tóc mọc lại <30%), tacrolimus bôi tại chỗ có kết quả còn hạn chế, dạng uống không có kết quả.
Rụng tóc liên quan androgen:
Điều trị cũng rất phức tạp, nhiều khi cần phải kết hợp điều trị chung với điều trị theo cơ chế gây bệnh. Tại chỗ có thể xịt thuốc minoxidil. Cũng có thể uống một trong các thuốc kháng androgen như: cimetidin, cyproteron acetate: có tác dụng ngăn chặn DTH (dihydrotestosterone) gắn kết với thụ thể ở nang lông; spironolacton vừa có tác dụng ức chế sản xuất androgen ở thượng thận và buồng trứng, vừa ngăn chặn DTH gắn kết với thụ thể ở nang lông.
Rụng tóc do nấm tóc và do viêm da dầu:
Điều trị hết nấm tóc hoặc hết viêm da dầu thì tóc sẽ mọc lại hoàn toàn. Về điều trị, nên kết hợp đường uống: nizoral hoặc sporal và bôi tại chỗ như clotrimazol, kem nizoral, terbinafin và gội đầu bằng các loại dầu gội có chứa ketoconazole như nizoral, kelog, dezor, haicneal kết hợp với uống bepanthene, biotin, L-cystine vừa có tác dụng ức chế da nhờn vừa có tác dụng tăng trưởng mọc tóc.
Một số phương pháp điều trị khác
PUVA (psoralen + chiếu tia cực tím): liều 20-40 lần chiếu, tóc mọc lại nhưng đa số cũng tái phát sau ngưng điều trị vài tháng.
Có thể dùng phương pháp cấy tóc hoặc laser tại chỗ, laser nội mạch. Phẫu thuật ghép vùng da không bị rụng tóc lên vùng bị rụng tóc, đây là một phương pháp áp dụng mới nhất hiện nay. Trước khi phẫu thuật ghép tóc, người ta dùng kỹ thuật nong kéo giãn da đầu phần không bị rụng tóc vùng lân cận mà dự định sẽ lấy ghép, sau một thời gian, độ giãn da đủ để ghép lên vùng da bị mất tóc thì lúc này chuẩn bị phẫu thuật ghép tóc. Phương pháp này áp dụng rất tốt cho các trường hợp rụng tóc từng vùng.


Nhận biết các thể bệnh vẩy cá

Các thể bệnh vẩy cá ít ảnh hưởng đến sức khỏe nhưng lại gây ra nhiều phiền toái về thẩm mỹ. Hiểu biết các thể bệnh sẽ giúp chúng ta chăm sóc người bệnh tốt hơn.

Vẩy cá thể thông thường
Vẩy cá bẩm sinh thể thông thường thường gặp nhất, đây là bệnh di truyền gen trội, hiếm khi biểu hiện nặng, tỷ lệ mắc khoảng 1/250. Khoảng 37 - 50% trường hợp mắc đồng thời với viêm da cơ địa hay các bệnh dị ứng khác như viêm mũi dị ứng, hen...
Nhận biết các thể bệnh vẩy cá 1
Bệnh vẩy cá thể thông thường
Dấu hiệu lâm sàng gồm: Da khô, bong vẩy khi sơ sinh, hoặc khoảng 2 tháng sau sinh hay muộn hơn. Vẩy da có màu trắng xám, nhỏ mịn, mảnh nhỏ cuộn tròn bám nửa vào da. Da toàn thân có thể bong vẩy bất thường nhưng chủ yếu ở mặt duỗi, nhất là ở cẳng chân. Tổn thương ở thành bụng nhưng vùng bẹn bình thường. Trên mặt, tổn thương có ở trán, quanh miệng, có thể có gàu nhẹ ở da đầu. Ở bàn tay, bàn chân, các vân tay trở nên rõ do bị dày sừng nhẹ. Không tổn thương lông, tóc, móng và răng, niêm mạc, mắt. 

Bệnh nhẹ dần khi tuổi càng cao. Bệnh nhân có cảm giác da khô, ráp và thiếu tự tin vì vấn đề thẩm mỹ. Nếu chỉ bị vẩy cá đơn thuần thì không bị ngứa nhưng nếu phối hợp với viêm da cơ địa thì thường kèm theo ngứa, gãi có thể gây dày da liken hóa và các vết xước. Bệnh thường bớt khi đến tuổi dậy thì, tuy nhiên cũng có một số bệnh nhân lại bị nặng lên.
Điều trị: Bệnh nhân cần được ở trong môi trường ấm, có độ ẩm vừa phải. Điều trị bằng cách bôi các kem dịu da, mềm da. Nếu bệnh nặng phải bôi các chế phẩm có parafin. Những người do bận làm việc không bôi kem đều đặn được thì có thể dùng sữa tắm có kem. 
Nếu dùng mỡ salicylic 3 - 5% thì có tác dụng làm bong vẩy, nhưng dễ gây kích ứng và nhiễm độc nếu bôi diện rộng. Các loại acid hoa quả như lactat, glycolic, malic, citric, pyruvic... 5 - 10% chế phẩm dạng dầu hoặc kem, lotion có tác dụng làm dịu da, mịn da. Đối với bệnh nhân bị cả hai bệnh vẩy cá và viêm da cơ địa, cần phải sử dụng kem có corticosteroid.
Vẩy cá do nhiễm sắc thể X
Đây là thể bệnh di truyền gen lặn của nam giới sinh ra từ bà mẹ mang gen bệnh nhưng không có triệu chứng, bệnh xuất hiện sớm sau sinh. Triệu chứng đặc trưng là vẩy da nhiều, màu nâu bẩn ở gáy, chi, thân mình và mông. Thể này chỉ gặp ở nam với tỷ lệ mắc phải 1/2.000 - 6.000. Gen bệnh là Xp22.32 ở nhiễm sắc thể X. 
Nếu nữ mang gen này thường không biểu hiện bệnh. Bệnh sinh do thiếu hụt men Steroid sulfatase. Triệu chứng thường xuất hiện sớm ngay sau khi sinh hoặc tháng đầu tiên với tỷ lệ khoảng 75%. Biểu hiện vẩy da to, dính, màu nâu sẫm bẩn, hình đa giác. Tổn thương hay thấy ở mặt gấp, như vậy là trái ngược với vẩy cá thể thông thường, và mặt duỗi như sau cổ, quanh tai, vùng mặt - cằm, mặt duỗi cánh tay, nếp gấp khuỷu tay, khoeo chân. 
Tổn thương ít có ở vùng bụng, ngực, nhưng rõ hơn ở các vùng mặt duỗi tay, mặt ngoài đùi và cẳng chân. Tổn thương có thể ở da đầu, nách, mu tay, mu chân, nhưng bàn tay, bàn chân và mặt không bị tổn thương. Đục giác mạc ở khoảng 50% trường hợp. Đặc biệt triệu chứng tinh hoàn ẩn gặp khoảng 20% trường hợp, tinh hoàn lạc chỗ, vô sinh... Bệnh không nhẹ khi bệnh nhân lớn lên và thường biểu hiện nặng hơn vào mùa khô hanh.
Điều trị: Dùng thuốc bôi như với vẩy cá thể thông thường. Uống thuốc retinoid có hiệu quả đối với một số trường hợp nhưng cần thận trọng với các tác dụng phụ của thuốc và phải do bác sĩ chỉ định và theo dõi chặt chẽ.
Nhận biết các thể bệnh vẩy cá 2
Tiêu bản tổn thương bệnh vẩy cá bong vẩy lá.
Vẩy cá bong vẩy lá
Đây là thể bệnh thường xuất hiện ngay sau khi sinh với triệu chứng đứa trẻ có bọc màng, sau đó màng sẽ mất đi nhanh và xuất hiện các vẩy da lớn, thô trên da toàn thân bao gồm cả mặt gấp của chi, bàn tay, bàn chân. Bệnh làm ảnh hưởng lớn về thẩm mỹ.
Biểu hiện: Khi sinh ra trẻ đã bị bệnh với biểu hiện có màng bọc toàn thân, màng bọc trong và bong đi trong vài tuần, đỏ da toàn thân, lộn mi và lộn môi, da mặt căng. Trẻ nhỏ và người lớn có vẩy da như giấy ở toàn thân, trông như hình ảnh lát đá hoa. Vẩy da to, dày, màu nâu bao phủ khắp cơ thể, nặng nhất ở chi dưới.
Da ở quanh khớp dày sừng có khi sùi cao lên. Dày sừng ở bàn tay, bàn chân, lòng bàn tay, bàn chân nứt. Có thể xuất hiện đỏ da toàn thân. Tóc có thể bị rụng do nhiễm khuẩn. Tổn thương gây sẹo, thường có màu nâu do vẩy da. Niêm mạc không bị tổn thương. Trẻ có nguy cơ bị mất nước, tăng natri huyết, bội nhiễm và nhiễm khuẩn huyết. Bệnh tồn tại suốt đời và không tiến triển nhẹ đi khi lớn lên. Dày sừng làm tắc các tuyến bài tiết mồ hôi, làm cho bệnh nhân không tiết được mồ hôi...
Điều trị bằng cách bôi các thuốc làm dịu da, mềm da. Bôi thuốc bong vẩy da và alpha - hydroxy acid, uống retinoid như trong trường hợp trên.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons